Dịch vụ phi kiểm toán và tính riêng của kiểm toán viên ở VN

♠ Posted by Việt Nam Marketing in at 22:49

Chất lượng kiểm toán đòi hỏi phải luôn được nâng cao trong bối cảnh nền kinh tế cải cách và phát triển và hội nhập mạnh khỏe với quốc tế. Tính hòa bình là 1 thành phần cần thiết của chất lượng kiểm toán, đảm bảo an toàn sự khách quan của ý kiến kiểm toán. thế nên, tính độc lập kiểm toán khi được du nhập từ quốc tế vào VN sẽ có những biệt lập. Thông qua các phương pháp nghiên cứu, bài viết tìm ra được loại hình dịch vụ ghi sổ kế toán và dịch vụ tư vấn thuế làm suy giảm đáng kể tính độc lập của kiểm toán.


Tính hòa bình là thành phần thiết yếu của chất lượng kiểm toán. Hiện nay, trên thế giới có nhiều nghiên cứu và điều tra về tính chủ quyền kiểm toán nói chung và mối quan hệ giữa dịch vụ phi kiểm toán và tính hòa bình kiểm toán nói riêng theo thời gian và không gian khác biệt. Đối với VN ngành Kiểm toán còn non trẻ và có đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội khác so với các nước trên nhân loại. cho nên, mối quan hệ giữa dịch vụ phi kiểm toán và tính hòa bình kiểm toán tại Việt Nam cũng có những đặc trưng khác với thế giới. điều tra nghiên cứu vấn đề này, bài viết tìm ra được loại dịch vụ ghi sổ kế toán và dịch vụ hỗ trợ tư vấn thuế làm suy giảm đáng kể tính độc lập kiểm toán.

Xem thêm: Liên hệ ngay với công ty Vinasc nếu quý công ty có nhu cầu về Dich vu ke toan thue nhanh chóng và chuyên nghiệp nhất.

Phương pháp điều tra và nghiên cứu

Bài viết sử dụng cách thức nghiên cứu tư liệu và phương pháp diễn giải để nghiên cứu và điều tra để tổng kết các nghiên cứu trước đã chào làng trên các tạp chí uy tín; nghiên cứu và điều tra các khái niệm, Lý thuyết có liên quan đến đề tài đang thực hiện. tiếp theo sau dùng phương thức nghiên cứu theo bối cảnh để xác định các mô hình dịch vụ phi kiểm toán rất có thể tác động đến tính hòa bình kiểm toán phù hợp bối cảnh văn hóa, xã hội Việt Nam. Sau đó, sử dụng phương pháp chất vấn sâu chuyên gia cho đến khi đạt điểm bão hòa với bảng câu hỏi mở để khẳng định lại những từng loại hình dịch vụ phi kiểm toán có tác động ảnh hưởng đến tính tự do của kiểm toán viên Việt Nam hay không.

Dữ liệu điều tra nghiên cứu

Dữ liệu điều tra và nghiên cứu gồm có: Các bài báo khoa học công bố trên các tạp chí kế toán, kiểm toán hàng đầu; Các quy định pháp luật về đạo đức công việc và nghề nghiệp; công dụng chất vấn chuyên gia là giám đốc công ty kiểm toán, kiểm toán viên, trợ lý kiểm toán, cán bộ tín dụng ngân hàng, giám đốc và kế toán trưởng công ty được kiểm toán, cán bộ hội nghề nghiệp kiểm toán Việt Nam.

Một số Vụ việc lý luận về tính độc lập kiểm toán

Tính độc lập kiểm toán

Tính tự do thường được mô tả như là căn cơ của kiểm toán và rất thiết yếu cho báo cáo tài chính doanh nghiệp (Mautz & Sharaf, 1964; Previts & Merino, 1998). Bởi vì, kiểm toán được yêu cầu cung cấp sự đảo bảo hợp lý và khách quan rằng báo cáo tài chính của một doanh nghiệp phản ảnh trung thực và hợp lý, từ đó nâng cao độ tin cẩn cho báo cáo tài chính. Qua đó, các bên liên quan (cổ đông, nhà đầu tư tiềm năng, nhà quy định luật, chủ nợ, thị phần tài chính và công chúng) tin tưởng vào sự khách quan và trung thực của những báo cáo rất có thể đưa ra quyết định phù hợp cho đầu tư.

Liên đoàn Kế toán thế giới phân loại tính tự do thành 2 phần: độc lập tư tưởng và chủ quyền hình thức. Trong khi chủ quyền tư tưởng là trạng thái suy nghĩ mà cho phép kiểm toán viên thực hiện kiểm toán với sự khách quan, trung thực và đặt nghi vấn mang tính công việc và nghề nghiệp, độc lập hình thức đòi hỏi tránh những tình huống mà rất có thể làm cho người sử dụng có kiến thức về tất cả tình huống nghi ngờ kiểm toán viên có thể đưa ra ý kiến khách quan.

Tuy nhiên, độc lập tư tưởng thì khó để nhận xét, vì vậy nhà làm luật, nhà đầu tư và người sử dụng báo cáo tài chính khác thì hầu hết là đánh giá chủ quyền hình thức bằng cách xem xét có hay không những tình huống mà có làm tổn hại đáng kể tính độc lập của kiểm toán viên là tồn tại những biện pháp đảm bảo để làm nhẹ bớt những nguy cơ.

Ở Việt Nam, tính độc lập được quy định trong Chuẩn mực đạo đức công việc và nghề nghiệp kế toán và kiểm toán ban hành theo Thông tư số 70/2015/TT-BTC ngày 8/5/2015 của Bộ Tài chính. Tính độc lập là nguyên tắc đầu tiên và quan trọng nhất đối với đạo đức công việc và nghề nghiệp của kiểm toán viên. Tính chủ quyền đòi hỏi kiểm toán viên khi đưa ra ý kiến phải độc lập về mặt hình thức và độc lập về mặt tư tưởng.

Dịch vụ phi kiểm toán

Dịch vụ phi kiểm toán là những dịch vụ khác với dịch vụ kiểm toán mà công ty kiểm toán chủ quyền cung cấp cho cùng một khách hàng kiểm toán. Các dịch vụ phi kiểm toán gồm có: Dịch vụ tư vấn quản lý, dịch vụ thi công hệ thống, dịch vụ support thuế… Các dịch vụ phi kiểm toán có khả năng làm giảm tính hòa bình kiểm toán viên.

kim chỉ nan đại diện

Lý thuyết đại diện mở ra trong những năm 1970 với nghiên cứu đầu tiên vào những vấn đề thông tin bất cân xứng giữa người chủ và người cai quản trong ngành Bảo hiểm (Spence và Zeckhauser, 1971; Ross, 1973) và gấp rút trở thành một Lý thuyết vận dụng vào các lĩnh vực khác về những sự việc liên quan đến hợp đồng đại diện giữa người sở hữu và người đại diện người chủ để điều hành hoạt động vui chơi của đơn vị - gọi là thay mặt (Jensen và Meckling, 1976; Harris và Raviv, 1978).

người chủ sở hữu mong muốn người đại diện hoàn thành kim chỉ nam của mình đặt ra và người đại diện phải thực hiện công việc một cách kết quả và trung thực. Người đại diện có nhiều thẩm quyền trong việc điều hành hoạt động vui chơi của đơn vị, trong khi người chủ sở hữu khó giám sát hoạt động của đơn vị. Lý thuyết cho rằng, tồn tại năng lực chuyên môn người đại diện không thực hiện hết hoặc không đúng những yêu cầu của người sở hữu vốn đề ra. vì thế xảy ra xung đột lợi ích giữa người sở hữu vốn và người đại diện.

định hướng đại diện cho rằng, kiểm toán viên được chọn trong mối quan hệ lợi ích giữa bên thứ ba và nhà cai quản. vì thế, kiểm toán viên đóng vai trò là chuyên gia có chuyên môn cao và hòa bình để chứng thực thông tin thể hiện trên báo cáo của đơn vị được kiểm toán, từ đó giải quyết những xung đột lợi ích giữa người chủ sở hữu, người đại diện và các bên liên quan.

Định hướng tính hợp pháp

Lý thuyết tính hợp pháp dựa trên tiền đề rằng các tổ chức cần phải cam kết ràng buộc tính hợp pháp của họ trong môi trường bằng cách tuân theo các chuẩn mực và kỳ vọng của xã hội để duy trì liên quan và tiếp tục tồn tại (Suchman, 1995). Khi thái độ và kỳ vọng của xã hội thay đổi, các tổ chức cần được thích ứng với sự thay đổi các yêu cầu để đảm bảo chuyển động này là hợp pháp và phù hợp (Deegan, 2006). Tính hợp pháp của một đơn vị là một nguồn lực hoạt động mà được thu được một cách cạnh tranh từ môi trường và sử dụng để giành được kim chỉ nam đặt ra (Pfeffer & Salancik, 2003; Suchman, 1995).

Đối với những công ty kiểm toán độc lập, mặc dù khung pháp lý cung cấp tính hợp pháp cho các chức năng kiểm toán của chính nó, sự mất lòng tin của công chúng dẫn đến từ những thất bại kiểm toán đòi hỏi sự cần thiết phải tùy chỉnh cấu hình lại tính hợp pháp của nghề nghiệp và công việc. Môi trường của các kiểm toán viên bao gồm nhiều bên liên quan khác nhau như khách hàng thông tin, nhà cai trị nhà nước và cơ quan chuyên môn.

tương xứng với các Lý thuyết tính hợp pháp, tất cả các bên liên quan có những kỳ vọng của một báo cáo kiểm toán độc lập về báo cáo tài chính có trung thực và phải chăng để đưa ra quyết định phù hợp. Như tự do về mặt hình thức dựa vào vào cách mà quý khách hàng thông tin nhận thức mối đe dọa Lúc Này và biện pháp bảo đảm được áp dụng để giảm thiểu những tai hại đến hơn cả chấp nhận được, các bên liên quan sẽ định kỳ kiểm tra liệu có hay không kiểm toán viên kiểm soát các mối đe dọa đến mức chấp nhận được để khẳng định tính hợp pháp của họ.

Lý thuyết tính hợp pháp cung cấp cơ sở cho các bên liên quan để đánh giá sự hình thức của tính độc lập bằng cách xem xét liệu có hay không kiểm toán viên tránh được hoặc kiểm soát các mối đe dọa tới mức chấp nhận bằng cách thực hiện các biện pháp bảo vệ.

Tổng quan các nghiên cứu và điều tra về dịch vụ phi kiểm toán và tính độc lập kiểm toán

Có nhiều điều tra và nghiên cứu liên quan tác động của dịch vụ phi kiểm toán đến tính độc lập của kiểm toán viên tại nhiều thị phần khác nhau qua các thời kỳ. tác dụng của sự ảnh hưởng tác động là hỗn hợp. Dịch vụ phi kiểm toán có khả năng làm giảm tính tự do kiểm toán hoặc không ảnh hưởng đánh kể tới tính độc lập. Một số nghiên cứu và điều tra còn cho thấy, dịch vụ phi kiểm toán làm tăng chất lượng kiểm toán. có khả năng kể tới các nghiên cứu và điều tra tiêu biểu sau:

Dịch vụ phi kiểm toán rất có khả năng ảnh hưởng tính độc lập kiểm toán. RandolphA. Shockley (1981) điều tra và nghiên cứu thông qua bảng câu hỏi qua mail, kết quả là công ty kiểm toán có cung cấp dịch vụ tư vấn quản lý thì làm giảm tính độc lập kiểm toán.

Nicholas Dopuch và Ronald R. King (1991) dùng phương pháp thực nghiệm để nghiên cứu và tác giả đề nghị rằng, người làm cơ chế ngăn cấm dịch vụ phi kiểm toán thì sẽ có sự bất lợi tác động tới cấu trúc Thị Trường của ngành kiểm toán, từ đó có thể ảnh hưởng tính độc lập kiểm toán.

Ferdinand A. Gul và cộng sự (2007) chỉ ra mối quan hệ giữa phí phi kiểm toán và tính tự do kiểm toán thì phụ thuộc vào nhiệm kỳ kiểm toán, và phí phi kiểm toán có ảnh hưởng tác động âm tới tính độc lập kiểm toán khi nhiệm kỳ kiểm toán ngắn và quy mô công ty khách hàng nhỏ. Dahlia Robinson (2008) cho rằng, dịch vụ thuế cung cấp bởi kiểm toán viên thì làm suy giảm tính độc lập kiểm toán. Allen D. Blay và Marshall A. Geiger (2013) chứng minh được mối quan hệ giữa sự suy giảm tính tự do và phí dịch vụ phi kiểm toán tại Mỹ.

Kiểm toán viên cung cấp dịch vụ trợ giúp kiện tụng có nhiều khả năng biện hộ ý kiến khách hàng của họ, từ đó làm giảm tính độc lập kiểm toán. Tiêu biểu có các nghiên cứu và điều tra của: Crain và cộng sự (1994); Trompeter (1994); Ponemon (1995); Brody & Masselli (1996); Haynes và cộng sự (1998); Shaub (2004); Francis (2006); Jenkins & Lowe (2011). Dịch vụ thiết kế hệ thống cũng làm giảm tính độc lập kiểm toán như điều tra nghiên cứu của Kurt Pany and P. M. J. Reekers (1983).

Mặc dù, có tương đối nhiều nghiên cứu và điều tra cho rằng, dịch vụ phi kiểm toán không làm giảm tính độc hòa bình toán. Mark L . Defond và cộng sự (2002) không kiếm thấy sự liên quan đáng kể giữa các phí dịch vụ phi kiểm toán và suy giảm tính tự do kiểm toán viên. A A Ghosh và cộng sự (2009) cho rằng, không có bằng chứng về mối liên quan giữa tính tự do kiểm toán và xác suất phí phi kiểm toán.

Mohinder Parkash và Rajeev Singhal (2009) cho thấy không có sự tương quan đáng kể giữa ý kiến chấp nhận toàn phần và phí dịch vụ phi kiểm toán. Philip Beaulieu và Alan Reinstein (2010) chỉ ra người hành nghề tại công ty lớn sẽ ít có tác dụng hơn kiểm toán viên ở công ty nhỏ trong vụ việc tin rằng dịch vụ phi kiểm toán làm suy giảm tính hòa bình kiểm toán.

Nicole Ratzinger-Sakel (2013) cho rằng, kiểm toán viên nước Đức thì không giảm chủ quyền hơn khi cung cấp dịch vụ phi kiểm toán. Ananth Seetharaman và cộng sự (2015) không tìm thấy mối quan hệ giữa dịch vụ thuế được cung cấp bởi kiểm toán viên và chất lượng báo cáo tài chính cho công ty đại chúng.

Dịch vụ phi kiểm toán tạo nên sự lan tỏa kiến thức, từ đó đưa về nhiều lợi ích. Zoe-Vonna Palmrose (1986) cho rằng khách hàng cảm nhận tốt hơn với việc được công ty kiểm toán cung cấp đồng thời dịch vụ kiểm toán và phi kiểm toán. Mohinder Parkash và Carol F. Venable (1993) chỉ ra khách hàng có xu thế mua dịch vụ phi kiểm toán vì có sự lan tỏa kiến thức khi có sử dụng đồng thời của dịch vụ kiểm toán và dịch vụ phi kiểm toán xuất phát điểm từ 1 công ty kiểm toán.

Michael Firth (1997) giải thích công ty có chi phí ủy quyền đại diện cao hơn thì có liên quan đến mua dịch vụ phi kiểm toán bé nhiều hơn từ kiểm toán viên của họ. Jennifer R. Joe và Scott D. Vandervelde (2005) chỉ ra dịch vụ phi kiểm toán được cung cấp bởi kiểm toán viên rất có khả năng có tương đối nhiều lợi ích từ việc kiến thức chuyển giao thêm cho tiếp cận rủi ro khủng hoảng kiểm toán khi cùng một kiểm toán viên thực hiện cả dịch vụ kiểm toán và phi kiểm toán. điều tra nghiên cứu của W. Robert Knechel và Divesh S. Sharma (2012) cho thấy thêm, dịch vụ phi kiểm toán được cung cấp bởi kiểm toán viên thì đem đến nhiều lợi ích cho khách hàng mà không dẫn đến mất sự kết quả kiểm toán.

Ngoài ra, dịch vụ phi kiểm toán cũng có liên quan đến các công ty có hành vi gian lận báo cáo tài chính. Ariel Markelevich và Rebecca L. Rosner (2013) chỉ ra rằng, những công ty gian lận mà bị phạt bởi ủy ban chứng khoán thì chi trả tổng phí, phí kiểm toán, phí phi kiểm toán cao hơn đáng kể so với các công ty bị phạt không phải từ ủy ban chứng khoán.

Các nghiên cứu trên cho biết thêm, Một số nghiên cứu và điều tra chỉ ra dịch vụ phi kiểm toán làm suy giảm tính hòa bình kiểm toán. Một số nghiên cứu cho thấy dịch vụ phi kiểm toán không tác động đến tính độc lập kiểm toán hoặc không đủ bằng chứng cho sự ảnh hưởng này. Bên cạnh đó, một số ít nghiên cứu khác thì cung cấp bằng chứng rằng dịch vụ phi kiểm toán làm tăng khả năng lan tỏa kiến thức và tăng chất lượng kiểm toán. Như vậy, đối với sự tác động của dịch vụ phi kiểm toán đến tính độc lập kiểm toán, kết quả các điều tra và nghiên cứu là hỗn hợp.

Phân tích và Lý giải kết quả hỗn hợp rất có khả năng là do các nghiên cứu và điều tra được thực hiện tại các đất nước mà khác nhau về văn hóa, kinh tế, chính trị và xã hội. Đồng thời, các nghiên cứu trên ít khi dùng phương thức nghiên cứu và điều tra định tính theo bối cảnh để tìm hiểu tại thị trường đang điều tra và nghiên cứu. cho nên, nếu nghiên cứu được thực hiện tại VN – một thị trường kinh tế mới nổi có nhiều đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa khác hoàn toàn với các nước trên thế giới - thì cần phải khẳng định từng loại hình dịch vụ phi kiểm toán tác động tính hòa bình kiểm toán trong bối cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội của nước ta.

Kết quả nghiên cứu và hàm ý

Thông qua công dụng khảo lược và phân tích từ các các nghiên cứu trước, xác định lại tính thích hợp với bối cảnh VN từ phỏng vấn chuyên gia, công dụng như sau:

Dịch vụ phi kiểm toán tại Việt Nam đang được các công ty kiểm toán cung cấp gồm có: Dịch vụ ghi sổ kế toán, dịch vụ tư vấn thuế, dịch vụ tư vấn quản lý, dịch vụ hỗ trợ tư vấn tài chính, dịch vụ kiến tạo hệ thống thông tin kế toán, dịch vụ thiết kế kiểm soát điều hành nội bộ, dịch vụ đánh giá điều hành và kiểm soát nội bộ, dịch vụ cung cấp phần mềm kế toán và thuế, dịch vụ kế toán quản trị, định giá DN, hỗ trợ tư vấn niêm yết/cổ phần hóa DN, dịch vụ đào tạo.

Trong các dịch vụ phi kiểm toán nêu trên, thì dịch vụ ghi sổ kế toán và dịch vụ hỗ trợ tư vấn thuế nếu cung cấp cùng với dịch vụ kiểm toán cho cùng một khách hàng thì sẽ làm giảm tính tự do kiểm toán. Đồng thời, quy tắc đạo đức nghề nghiệp và công việc kiểm toán tại nước ta cũng không cho phép công ty kiểm toán cung cấp đồng thời 2 dịch vụ này cùng lúc cung cấp dịch vụ kiểm toán cho 1 khách hàng.

Người được chất vấn cho rằng, các dịch vụ phi kiểm toán còn lại thì không ảnh hưởng tính hòa bình kiểm toán do bộ phận cung cấp dịch vụ phi kiểm toán khì khác với nhóm thực hiện kiểm toán.

Về phía đơn vị được kiểm toán, họ cho rằng tính chủ quyền kiểm toán vẫn đảm bảo nếu dịch vụ kiểm toán và dịch vụ phi kiểm toán được thực hiện bởi những nhóm người khác nhau. Hơn nữa, dịch vụ phi kiểm toán sẽ lan tỏa kiến thức sang dịch vụ kiểm toán, làm tăng tác dụng kiểm toán.

Từ tác dụng điều tra và nghiên cứu trên cho biết dịch vụ phi kiểm toán với dịch vụ ghi sổ kế toán và hỗ trợ tư vấn thuế sẽ làm suy giảm đáng kể tính tự do kiểm toán. Những dịch vụ phi kiểm toán khác không những không làm tính tự do kiểm toán mà còn làm tăng hiệu quả kiểm toán do có được sự lan tỏa kiến thức.

Kết luận

Kiểm toán thành lập và hoạt động từ nhu cầu của xã hội nhằm gia tăng tính tin cậy và minh bạch của thông tin tài chính. Tính độc lập là một yếu tố luôn được xã hội kỳ vọng ngày càng cao để đảm bảo chất lượng kiểm toán. Tính độc lập kiểm toán bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, trong số đó có yếu tố dịch vụ phi kiểm toán. Đã có tương đối nhiều nghiên cứu trên thế giới về mối quan hệ giữa dịch vụ phi kiểm toán và tính độc lập kiểm toán. mặc dù, kết quả của các nghiên cứu khác nhau, đôi khi trái ngược nhau.

Dựa vào phương thức nghiên cứu phù hợp, bài viết đã khẳng định được loại hình dịch vụ ghi sổ kế toán và dịch vụ support thuế làm suy giảm đáng kể tính độc lập kiểm toán. Các dịch vụ phi kiểm toán khác như: Dịch vụ hỗ trợ tư vấn cai trị; dịch vụ support tài chính; dịch vụ xây đắp hệ thống thông tin kế toán; dịch vụ thi công kiểm soát và điều hành nội bộ; dịch vụ đánh giá kiểm soát nội bộ; dịch vụ cung cấp phần mềm kế toán và thuế; dịch vụ kế toán quản trị; định giá doanh nghiệp; hỗ trợ tư vấn niêm yết/cổ phần hóa doanh nghiệp, dịch vụ đào tạo thì không làm suy giảm tính độc lập kiểm toán.

Tài liệu tham khảo:

1. Malcolm Smith, Research method in Accounting, 2003;

2. Eisenhardt, Kathleen M., Agency Theory: An Assessment And Review,The Academy of Management Review;Jan 1989; 14,1;57;

3. Shockley, R. A. (1981). Perceptions of auditors’ independence: An empirical analysis. The Accounting Review, 56, 785-800;

4. Palmrose, Z. (1986). The effect of nonaudit services on the pricing of audit services: Further evidence.Journal of Accounting Research, 24, 405-411.

http://bignewsmag.com/dich-vu-phi-kiem-toan-va-tinh-doc-lap-cua-kiem-toan-vien-tai-vn-9329.html
 

0 nhận xét:

Đăng nhận xét